Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Điều kiện cần và đủ để lĩnh BHXH 1 lần

Điều kiện cần và đủ để lĩnh BHXH 1 lần

Tôi làm việc tại nhà băng từ năm 2003. Đến tháng 04/2015 tôi sẽ đi định cư nước ngoài. Vậy cho tôi hỏi trường hợp của tôi có được hưởng Bảo hiểm xã hội 1 lần hay không?

Thủ tục giấy tờ khoảng bao lâu thì mới được hưởng? Tôi muốn lãnh tiền này sau khoảng 1 tháng sau khi thôi việc được không?



trạng sư tham vấn:

Căn cứ Điểm d Khoản 1 Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội 2006: “ra nước ngoài để định cư” là trường hợp được xét hưởng Bảo hiểm xã hội một lần. Mức hưởng BHXH một lần được quy định tại Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội 2006: “Mức hưởng Bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng Bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân lương thuởng, tiền công tháng đóng BHXH”.

Giấy tờ giải quyết Bảo hiểm xã hội một lần được quy định tại Điều 20 Quyết định 01/Bảo hiểm xã hội năm 2014 của BHXH Việt Nam

“Điều 20. Giấy tờ giải quyết hưởng Bảo hiểm xã hội một lần

1. Sổ BHXH.

2. Đơn đề nghị hưởng Bảo hiểm xã hội một lần (mẫu số 14-HSB) đối với trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 55 và Điều 73 Luật Bảo hiểm xã hội.

3. Quyết định mất việc (bản chính hoặc bản sao) hoặc quyết định mất việc (bản chính hoặc bản sao) hoặc văn bản kết thúc hợp đồng cần lao, hiệp đồng lao động hết hạn (bản chính hoặc bản sao) đối với trường hợp quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội.

4. Quyết định giải ngũ, giải ngũ, thôi việc (bản chính hoặc bản sao) đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội.

5. Biên bản giám định mức suy giảm khả năng cần lao của Hội đồng giám định y khoa đối với trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội.

6. Bản dịch tiếng Việt được công chứng (bản chính hoặc bản sao) của bản thị thực nhập cảnh được tạm cư dài hạn hoặc thẻ thường trú hoặc giấy công nhận tạm cư dài hạn do cơ quan có thẩm quyền nước sở tại cấp đối với người ra nước ngoài để định cư.”

Về quy trình và thời kì thực hiện, Khoản 2 Điều 27 Quyết định 01/BHXH năm 2014 của BHXH Việt Nam:

“2. Thực hành giải quyết hưởng Bảo hiểm xã hội một lần theo Điều 55 và Điều 73 Luật BHXH, gồm: Lập bản quá trình đóng BHXH (mẫu số 04D-HSB); ban hành hình định hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội một lần (mẫu số 07B-HSB); công nhận vào sổ BHXH theo quy định về nội dung đã hưởng Bảo hiểm xã hội một lần và thu hồi để lưu trữ cùng hồ sơ; cấp giấy công nhận thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp đối với trường hợp có thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp nhưng chưa hưởng theo quy định; trả hồ sơ hưởng BHXH một lần theo quy định tại Điểm 6.2 Khoản 6 Điều này cho người cần lao.

Khi giải quyết hưởng Bảo hiểm xã hội một lần phải đánh giá, đối chiếu các nguyên tố về nhân thân, số sổ Bảo hiểm xã hội, dữ liệu về quá trình đóng BHXH của người cần lao bảo đảm không giải quyết hưởng trùng trợ cấp.

Thời hạn giải quyết tối đa là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định. Trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

Vietnamnet.Vn

Quản lý   nhân viên   theo phong cách Nhật

Một trong những nhân tố thành công của bất kỳ doanh nghiệp nào chính là nghệ thuật   quản lý nhân viên   . Nguyên tố này tuy không trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ nhưng nó có vai trò rất lớn đối với việc tăng cường hiệu suất cần lao, chất lượng sản phẩm. Và các cơ quan Nhật Bản nhịn nhường như hiểu rõ nhất tầm quan yếu của nhân tố quản trị nhân sự. Trong thế kỷ 20, rất nhiều cuộc cách mệnh về quản trị viên chức đã diễn ra tại Nhật Bản, góp phần đáng kể vào vị thế của các cơ quan Nhật Bản trên thương trường quốc tế ngày nay.

Công tác làm trọn đời

Tại Nhật Bản, “công việc làm trọn đời” luôn là cách thức tăng cường năng suất thường được các công ty ứng dụng, giúp tạo ra hiệu quả trong công tác. Các công nhân sự Nhật Bản, nhất là những nam công nhân sự có tay nghề, thường thích làm một công việc suốt đời. Những công viên chức này ít tình nguyện đổi đơn vị hơn so với các viên chức ở các nước khác. Những công viên chức khác gọi là những công nhân sự tạm thời, thường chiếm khoảng 6% lực lượng lao động, ngay cả ở những doanh nghiệp lớn như TOYOTA. Tuy nhiên còn có nhiều công nhân làm việc không trọn ngày. Khi hoạt động kinh doanh sa sút, hay khi sử dụng các kỹ thuật tiện tặn lao động, các đơn vị giữ lại số công nhân sự làm việc suốt đời này trên bảng   lương   của họ, sa thải số công nhân trợ thời, giảm tiền thưởng thất thường cho số công nhân làm việc suốt đời và thuyên chuyển công nhân sự sang các phòng ban sản xuất khác.

Sự tham gia của nhân sự trong quá trình ra quyết định

Một số cơ quan Nhật Bản khuyến khích sự hiệp tác giữa người cần lao và nhà quản lý bằng cách phân chia quyền lãnh đạo.

Viên chức được tham dự vào hoạt động quản trị của cơ quan, đây là quá trình cộng tác giữa người lao động và nhà quản trị trong việc ra quyết định và các chính sách kinh doanh. Tỉ dụ như ở Isuzu, công nhân viên bầu ra những người có quyền đại diện cho mình vào hội đồng cần lao của công ty. Về những vấn đề tài chính và kinh tế, Hội đồng lao động của Isuzu được cung cấp thông báo và được tham khảo ý kiến vào việc ra quyết định, nhưng Hội đồng không có quyền như các cổ đông vì dù rằng các cổ đông và viên chức có số người đại diện như nhau nhưng vị chủ toạ đại diện cổ đông là người có lá phiếu quyết định.

Nhóm đánh giá chất lượng

Để nâng cao hiệu suất của công nhân viên, các cơ quan Nhật Bản đã thể nghiệm nhiều phương pháp khác nhau để yêu cầu công nhân sự đưa ra các sáng kiến để nâng cao sản lượng. Những nỗ lực hợp tác được liên quan một phần nhờ mục tiêu này.

Nhóm kiểm tra chất lượng là một trong những hoạt động đó, nhóm này bao gồm nhiều nhóm công nhân nhỏ, gặp nhau thường xuyên để phát hiện và để giải quyết các khó khăn của họ. Đây là một hoạt động có sự tham gia của nhiều cá nhân để họ tham khảo ý kiến giữa các đồng nghiệp với nhau vì mỗi một cá nhân thường không muốn quan hệ trực tiếp với nhà quản lý.

Làm việc theo nhóm

Tại Nhật Bản và các hoạt động đầu tư của Nhật Bản, người ta thường sử dụng cách thức làm việc theo nhóm để liên quan sự liên kết chặt chẽ trong nhóm và các công nhân quan hoài nhiều nhiệm vụ hơn là chỉ quan tâm đến một số nhiệm vụ nào đó mà thôi. Xét về mặt liên kết nhóm thì một phần của mức lương thường không dựa trên sản lượng, vì nếu vậy nhóm sẽ gây áp lực đòi hỏi không được vắng mặt thường xuyên và luôn cố gắng nhiều. Xét về mặt nhiều loại nhiệm vụ khác nhau, các công nhân viên có thể luân phiên làm các công tác trong nhóm để giảm sự nhàm chán và phát triển khả năng thay thế phòng khi người nào đó trong nhóm vắng mặt. Ngoài ra, các nhóm công viên chức còn kiểm soát chất lượng và tự tôn tạo máy móc của mình.

Huấn luyện,   đào tạo   các nhà quản trị tại chi nhánh ngoài nước

Nhiều công ty Nhật bản cho rằng sự khác biệt giữa những nhà quản lý quốc tế và nhà quản trị trong nước là nhà quản trị quốc tế phải biết tìm cách làm cho các hoạt động tại nước nhà phù hợp với các địa phương ở nước ngoài và quan hệ tốt với chính phủ nước đó. Nhiệm vụ của các nhà quản lý chi nhánh ở nước ngoài thường rộng hơn so với các nhà quản lý trong nước, họ phải đấu tranh với khó khăn về thông báo liên lạc giữa các doanh nghiệp đầu não của doanh nghiệp và chi nhánh.

Các cơ quan đa nhà nước Nhật Bản thường thích bổ nhiệm các nhà quản lý địa phương hơn là những người xa xứ vì các nhà quản lý địa phương am tường các điều kiện hoạt động ở địa phương, ít tốn kém, người địa phương có thể hội tụ vào hoạt động nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn. Các doanh nghiệp này thuyên chuyển nhân viên ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng chuyên môn và các hoạt động kinh doanh ở nước nhà, để kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và để phát triển các nhà quản lý.

Và tại Nhật, hai chức năng tập huấn, huấn luyện nhân viên ở nước ngoài là xây dựng những kiến thức tổng quát cho các nhà quản trị và trang bị cho các nhà quản trị cách thức để giải quyết những tình huống đặc biệt thường xảy ra đối với những người xa xứ.

Và rốt cuộc, “Làn sóng văn minh thứ tư" đang hướng các đơn vị Nhật Bản đến phá vỡ chương trình quản trị cũ duyệt y việc mở ra những phương pháp mới tăng đầu tư vào sáng tạo; đổi mới các qui trình công nghệ, sản xuất, marketing đáp ứng đề nghị mới... Trogn chiến lược nhân viên, các doanh nghiệp chú trọng đến những chính sách ưu đãi những người dẫn đầu các hoạt động sáng tạo, tạo thời cơ bình đẳng sáng tạo cho tất cả mọi người cùng với các hệ thống khen thưởng, khuyến khích sáng tạo.

Có thể nói, nhấn mạnh tính sáng tạo đang từng bước giữ vai trò hàng đầu của cuộc cách mệnh quản trị diễn ra ở Nhật Bản trong những năm rốt cục của thế kỷ 20.

Quantri.Vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét